Tổng số lượt xem trang
Group Yêu Nhật Bản- Sam Sam's House
Web ra đời từ việc mập (admin trang), hay ăn , hay uống thích chia sẻ trên fb. Nhưng khi bạn bè hỏi lại, tra lại hơi lười. Nên tổng hợp ở đây, gửi link cho nhanh, nếu bạn cần. Và có thống kê theo từng mục, tìm lại cũng dễ dàng.
Sau đó, chồng mập bèn mua tên miền thegioinhasam, và vài tháng sau khi viết, bật quảng cáo. Thật ra, ban đầu mập viết vì đam mê, chia sẻ. Chớ không nghĩ đến quảng cáo. Mà nói thật, tiền thu quảng cáo từ trang viết cực thấp. Vì họ thích xem, nghe hình ảnh trực quan sinh động hơn là đọc chữ. Văn hóa đọc chữ có thể đối với 1 bộ phận nào đó dần mai một.
Hy vọng, khi tìm đọc, bạn sẽ tìm được 1 điều gì đó có ích để tham khảo. Ah, menu món ăn, không gian quán, theo thời gian sẽ khác. Và vị giác, cảm nhận ngon, dở của 1 cá thể, 1 vùng miền là khác nhau. Chỉ có tính chất tham khảo nha. Nếu có góp ý cứ tự nhiên inbox, hoặc commnent dưới mỗi bài viết. Cảm ơn mọi độc giả từ khoảng 40 quốc gia trên thế giới đã ghé qua trang Thế giới nhà Sam
La Dolce Vita Cafe & Bar - Continental Saigon Hotel-ĐỒNG KHỞI
AI THÈM ĂN KIỂU Ý, kiểu Âu QUA ĐÂY NHA. Món Á cũng có luôn, yên tâm, nếu ghét món Tây. Mà ở đây làm ngon mà.
ĐỪNG TƯỞNG 5 SAO BÁN MẮC, CŨNG ỔN Á. Giá cả update tùy thời điểm nha, Mập chụp nhiều khi đi từ lúc nào á.
BAN NGÀY NGỒI KHU GARDEN HƠI NÓNG NHA.
TỐI THÌ MÁT MẺ, NGẮM ĐÈN , NGẮM SỨ, YÊN TĨNH.
Vô đây, hoặc vô mấy lobby quận Nhất gặp nhiều người nổi tiếng trong showbiz lắm á.
Bề dày lịch sử
Khách sạn Continental Sài Gòn được khởi công xây dựng năm 1878 bởi Pierre Cazeau, một nhà sản xuất vật liệu xây dựng người Pháp. Mục đích là để cung cấp chỗ ở sang trọng đúng phong cách châu Âu cho những người Pháp khi vượt hàng ngàn hải lý tới Việt Nam.
Đến năm 1880, khách sạn Continental được chính thức khánh thành và đưa vào hoạt động.
BAN NGÀY NGỒI KHU GARDEN HƠI NÓNG NHA.
TỐI THÌ MÁT MẺ, NGẮM ĐÈN , NGẮM SỨ, YÊN TĨNH.
Vô đây, hoặc vô mấy lobby quận Nhất gặp nhiều người nổi tiếng trong showbiz lắm á.
Bề dày lịch sử
Khách sạn Continental Sài Gòn được khởi công xây dựng năm 1878 bởi Pierre Cazeau, một nhà sản xuất vật liệu xây dựng người Pháp. Mục đích là để cung cấp chỗ ở sang trọng đúng phong cách châu Âu cho những người Pháp khi vượt hàng ngàn hải lý tới Việt Nam.
Đến năm 1880, khách sạn Continental được chính thức khánh thành và đưa vào hoạt động.
Nhà hàng cũng là nơi giới thiệu những đầu bếp xuất sắc với phong cách ẩm thực phương Tây. Các bữa tiệc với sự thừa thãi của các đĩa thức ăn và sự hào phóng của phân lượng là bản tuyên ngôn đích thực của chủ nghĩa dân tộc trong sự nấu nướng. “Ngon như ở Pháp” là khẩu hiệu của nhà hàng suốt gần trăm năm. Trong những buổi chiều tà, nơi đây rực sáng ánh đèn với những quý bà quý ông thanh lịch ăn uống, trò chuyện, lướt đi khiêu vũ trong tiếng nhạc. Con đường Catinat hoa lệ (sau này là đường Tự Do) đã mọc lên khá nhiều quán cà phê và tiệm rượu, trở thành tâm điểm giải trí khi màn đêm xuống. Nhưng chỉ ở quầy rượu nhà hàng Continental mới là nơi mà Kim Lefevre, một nhà văn từng sống thời gian dài ở Sài Gòn, khẳng định: Người ta thường giao thiệp với những phụ nữ thanh lịch nhất của Sài Gòn ở đây.(Sưu tầm)
*Những vị khách nổi tiếng
Đã có rất nhiều người nổi tiếng từng đến ở trong khách sạn này, từ ông hoàng nước Nga cho đến vũ công nước Pháp, khó có thể liệt kê hết, như thi hào Tagor, nhà văn Andre Malraux, Somerset Maugham, diễn viên điện ảnh Catherine Deneuve, người mẫu Kate Moss, cựu Tổng thống Pháp Chirac…
Có hai căn phòng rất đặc biệt trong khách sạn: Đó là phòng 214, nơi nhà văn người Anh Graham Greene trong thời gian lưu trú dài hạn tại đây đã thai nghén ý tưởng và viết hầu hết tác phẩm nổi tiếng Người Mỹ trầm lặng, câu chuyện về buổi giao thời của người Pháp và Mỹ tại Sài Gòn. Và phòng 307, nơi thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn cũng từng lưu trú khá dài.
Việc nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn thường xuyên lui tới khách sạn Continental, cũng như hay “ngồi đồng” ở tiệm cà phê Givral xéo bên đường đến mức ông được đặt biệt danh là “tướng Givral” do khách sạn là nơi thường xuyên lui tới của giới quan chức, sĩ quan, nhất là cánh báo chí phương Tây… để họp bàn, trao đổi công việc. Không một nơi nào giúp thu thập các nguồn tin tốt hơn thế cho công việc tình báo.Mark PhillipYablonka, một phóng viên chiến trường người Mỹ, đã từng “ăn dầm nằm dề” ở Việt Nam từ thời chiến tranh đến sau khi đất nước thống nhất. Khách sạn mà ông yêu thích nhất là Continental.
Ông đặt cho nơi đây biệt danh là “Grand Lady của các khách sạn ở Sài Gòn”. Ông viết thêm rằng: “Nếu những bức tường của Hotel Continental biết nói, chúng sẽ kể cho bạn rất nhiều điều”.
Thực ra các “bức tường” chỉ là một cách nói cách điệu, mà chính vì có rất nhiều nhà văn, nhà báo từng ngụ tại khách sạn này nên những điều họ chứng kiến và kể lại trong các tác phẩm hay bài viết đã khiến khách sạn này được biết đến rất nhiều, hơn bất kỳ khách sạn nào tại Sài Gòn.
Khách sạn đầu tiên của đất Nam Kỳ
Khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam và mở toang cửa ngõ đi vào các nước Đông Dương, họ cũng đã mở ra một trục du lịch mới ở Viễn Đông. Cùng với việc phát hiện ra quần thể Angkor (Đế Thiên Đế Thích) ở Campuchia năm 1860 gây sửng sốt cho cả thế giới, nhu cầu du lịch, khám phá Đông Dương trong giới quý tộc, giàu có Pháp tăng cao. Điều này khiến Pierre Cazeau, một nhà sản xuất vật liệu xây dựng, nảy ra ý định phải xây một khách sạn sang trọng tại Sài Gòn để đón những khách hàng người Pháp lắm tiền nhiều của. Họ cần có nơi dừng chân sau cuộc hành trình dài cả tháng bằng đường biển từ mẫu quốc, trước khi tiếp tục du ngoạn hay thám hiểm thuộc địa.
Ông ta đã chọn một lô đất rất đắc địa: Nằm giữa các bến cảng và thánh đường, thông qua con đường Catinat vốn là trục đường trung tâm huyết mạch bấy giờ, bắt đầu từ ngọn đồi cao nhất kéo xuống bờ sông. Nhà thờ Đức Bà lúc đó đang bắt đầu được xây dựng, Đức Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên năm trước thì năm sau khách sạn cũng được khởi công. Mất hai năm xây dựng và hoàn thành vào giữa năm 1880, gần như cùng lúc với nhà thờ Đức Bà.
Khoảng đất trống mênh mông đối diện với khách sạn nếu nhìn về hướng bờ sông, vốn được gọi là Esplanade – tức khoảng đất dạo chơi nằm giữa tòa thành quân sự và thành phố, sẽ là nơi Nhà hát Thành Phố được xây cất lên vào năm 1911 khiến khách sạn gia tăng một cách đáng kể giá trị. Bởi hiếm có địa điểm nào trong Sài Gòn lúc đó có góc nhìn đẹp được như vậy.
Khách sạn, giống tất cả kiến trúc Âu châu trong thành phố, được mở ngõ hướng ra bên ngoài. Kiến trúc, nội thất cũng như cách bài trí bên trong đều theo tiêu chuẩn của một khách sạn hạng sang tại Paris, tạo cảm giác quen thuộc cho du khách ở một đất nước xa lạ.
Tuy nhiên cũng có những ngoại lệ, khách sạn thiết kế vuông vức, trong đó có một khoảng sân ở giữa. Những dãy phòng bên trong đều quay mặt về khoảng sân này. Và giữa sân, người ta trồng rất nhiều cây hoa sứ (hoa đại), loại cây vùng nhiệt đới.
Tầng một của khách sạn đặt một sòng ba`i, nơi mà có người gọi là “cercle européen” (câu lạc bộ Âu châu), còn Franchini (ông chủ của khách sạn từ năm 1930 đến 1975) gọi là “cercle privé” (câu lạc bộ riêng), nơi mà các nhà quản trị hành chính, lữ khách, chủ đồn điền và chủ ngân hàng họp mặt thường lệ, vừa vì thói quen ham chơi bài cũng như vừa để sống lại kỷ niệm của đời sống mẫu quốc.
*Những vị khách nổi tiếng
Đã có rất nhiều người nổi tiếng từng đến ở trong khách sạn này, từ ông hoàng nước Nga cho đến vũ công nước Pháp, khó có thể liệt kê hết, như thi hào Tagor, nhà văn Andre Malraux, Somerset Maugham, diễn viên điện ảnh Catherine Deneuve, người mẫu Kate Moss, cựu Tổng thống Pháp Chirac…
Có hai căn phòng rất đặc biệt trong khách sạn: Đó là phòng 214, nơi nhà văn người Anh Graham Greene trong thời gian lưu trú dài hạn tại đây đã thai nghén ý tưởng và viết hầu hết tác phẩm nổi tiếng Người Mỹ trầm lặng, câu chuyện về buổi giao thời của người Pháp và Mỹ tại Sài Gòn. Và phòng 307, nơi thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn cũng từng lưu trú khá dài.
Việc nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn thường xuyên lui tới khách sạn Continental, cũng như hay “ngồi đồng” ở tiệm cà phê Givral xéo bên đường đến mức ông được đặt biệt danh là “tướng Givral” do khách sạn là nơi thường xuyên lui tới của giới quan chức, sĩ quan, nhất là cánh báo chí phương Tây… để họp bàn, trao đổi công việc. Không một nơi nào giúp thu thập các nguồn tin tốt hơn thế cho công việc tình báo.Mark PhillipYablonka, một phóng viên chiến trường người Mỹ, đã từng “ăn dầm nằm dề” ở Việt Nam từ thời chiến tranh đến sau khi đất nước thống nhất. Khách sạn mà ông yêu thích nhất là Continental.
Ông đặt cho nơi đây biệt danh là “Grand Lady của các khách sạn ở Sài Gòn”. Ông viết thêm rằng: “Nếu những bức tường của Hotel Continental biết nói, chúng sẽ kể cho bạn rất nhiều điều”.
Thực ra các “bức tường” chỉ là một cách nói cách điệu, mà chính vì có rất nhiều nhà văn, nhà báo từng ngụ tại khách sạn này nên những điều họ chứng kiến và kể lại trong các tác phẩm hay bài viết đã khiến khách sạn này được biết đến rất nhiều, hơn bất kỳ khách sạn nào tại Sài Gòn.
Khách sạn đầu tiên của đất Nam Kỳ
Khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam và mở toang cửa ngõ đi vào các nước Đông Dương, họ cũng đã mở ra một trục du lịch mới ở Viễn Đông. Cùng với việc phát hiện ra quần thể Angkor (Đế Thiên Đế Thích) ở Campuchia năm 1860 gây sửng sốt cho cả thế giới, nhu cầu du lịch, khám phá Đông Dương trong giới quý tộc, giàu có Pháp tăng cao. Điều này khiến Pierre Cazeau, một nhà sản xuất vật liệu xây dựng, nảy ra ý định phải xây một khách sạn sang trọng tại Sài Gòn để đón những khách hàng người Pháp lắm tiền nhiều của. Họ cần có nơi dừng chân sau cuộc hành trình dài cả tháng bằng đường biển từ mẫu quốc, trước khi tiếp tục du ngoạn hay thám hiểm thuộc địa.
Ông ta đã chọn một lô đất rất đắc địa: Nằm giữa các bến cảng và thánh đường, thông qua con đường Catinat vốn là trục đường trung tâm huyết mạch bấy giờ, bắt đầu từ ngọn đồi cao nhất kéo xuống bờ sông. Nhà thờ Đức Bà lúc đó đang bắt đầu được xây dựng, Đức Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên năm trước thì năm sau khách sạn cũng được khởi công. Mất hai năm xây dựng và hoàn thành vào giữa năm 1880, gần như cùng lúc với nhà thờ Đức Bà.
Khoảng đất trống mênh mông đối diện với khách sạn nếu nhìn về hướng bờ sông, vốn được gọi là Esplanade – tức khoảng đất dạo chơi nằm giữa tòa thành quân sự và thành phố, sẽ là nơi Nhà hát Thành Phố được xây cất lên vào năm 1911 khiến khách sạn gia tăng một cách đáng kể giá trị. Bởi hiếm có địa điểm nào trong Sài Gòn lúc đó có góc nhìn đẹp được như vậy.
Khách sạn, giống tất cả kiến trúc Âu châu trong thành phố, được mở ngõ hướng ra bên ngoài. Kiến trúc, nội thất cũng như cách bài trí bên trong đều theo tiêu chuẩn của một khách sạn hạng sang tại Paris, tạo cảm giác quen thuộc cho du khách ở một đất nước xa lạ.
Tuy nhiên cũng có những ngoại lệ, khách sạn thiết kế vuông vức, trong đó có một khoảng sân ở giữa. Những dãy phòng bên trong đều quay mặt về khoảng sân này. Và giữa sân, người ta trồng rất nhiều cây hoa sứ (hoa đại), loại cây vùng nhiệt đới.
Tầng một của khách sạn đặt một sòng ba`i, nơi mà có người gọi là “cercle européen” (câu lạc bộ Âu châu), còn Franchini (ông chủ của khách sạn từ năm 1930 đến 1975) gọi là “cercle privé” (câu lạc bộ riêng), nơi mà các nhà quản trị hành chính, lữ khách, chủ đồn điền và chủ ngân hàng họp mặt thường lệ, vừa vì thói quen ham chơi bài cũng như vừa để sống lại kỷ niệm của đời sống mẫu quốc.
SƯU TẦM
Mập mới ăn được vài món như hình ở đây à, cơ bản cũng ngon á.
Mỗi lần vô quán ăn , mập luôn muốn biết cách đây 91 năm thi hào Tagore ngồi ở đâu?
Từ tàu Angers, người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel đặt chân đến Sài Gòn trong sự chào đón của giới trí thức và người dân.
Cuối thập niên 1920, báo chí ở Sài Gòn dịch và đăng nhiều thơ của Rabindranath Tagore trong sự háo hức của công chúng. Các tác phẩm kinh điển của thi hào này khiến giới trí thức rất ngưỡng mộ.
Giải Nobel văn chương năm 1913 được trao cho Tagore là sự tự hào của cả châu Á lúc bấy giờ. Ông được kính trọng như nhà triết học thâm thúy với đời sống tinh thần và tôn giáo sâu xa, tượng trưng cho văn minh châu Á cổ đại của nhân loại.)- sưu tầm
Cuối thập niên 1920, báo chí ở Sài Gòn dịch và đăng nhiều thơ của Rabindranath Tagore trong sự háo hức của công chúng. Các tác phẩm kinh điển của thi hào này khiến giới trí thức rất ngưỡng mộ.
Giải Nobel văn chương năm 1913 được trao cho Tagore là sự tự hào của cả châu Á lúc bấy giờ. Ông được kính trọng như nhà triết học thâm thúy với đời sống tinh thần và tôn giáo sâu xa, tượng trưng cho văn minh châu Á cổ đại của nhân loại.)- sưu tầm